văn học chữ hán việt nam

Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt nam, Viện nghiên cứu Hán Nôm (Vietnam) Author. Nghĩa Trần. Publisher. Thế Giới, 1997. Original from. the University of Michigan. Digitized. Aug 30, 2007. Một số tác phẩm văn học chữ Hán nổi tiếng của văn học trung đại Việt có thể kể đến như: Nguyễn Trãi - Đại cáo bình Ngô - thể loại Cáo, Phạm Ngũ Lão - Thuật hoài - Thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, Trương Hán Siêu - Bạch Đằng giang Phú - Phú,… Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trãi 3.2. Văn học chữ Nôm Cũng trong thế kỷ 15, trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, (ĐVSK/NK) quyển III, sử gia Ngô Sĩ Liên viết rằng: "Nước ta thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ Vương". Như thế Ngô Sĩ Liên xác định Việt Nam có văn hiến kể từ thế Chữ Hán sau đó du nhập vào các nước lân cận trong vùng bao gồm Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam, tạo thành vùng được gọi là vùng văn hóa chữ Hán hay vùng văn hóa Đông Á. Tại các quốc gia này, chữ Hán được vay mượn để tạo nên chữ viết cho ngôn ngữ của dân bản Do đỏ, giáo trình chỉ cung cấp những kiến thức sơ bộ về chữ Hán đề người học cỏ cơ sở tiếp tục học các giáo trình Hán văn Việt-nam, Hán vân Trung-quốc mả chửng tòi hiện đang biên soạn. Giáo Trình Chữ Hán ; NXB Trung Học Chuyên Nghiệp 1978; Lê Văn Quán; 338 Trang; File Mann Mit Grill Sucht Frau Mit Kohle Sprüche. Nguồn gốc lâu đời của thơ chữ HánNhững bài thơ vang danh lưu truyền thiên cổTiểu thuyết chương hồi khai phát Chữ Hán là văn tự chung của các nước Á Đông cho đến thế đầu thế kỷ 20. Ngoài Trung Quốc, Việt Nam cùng với Nhật Bản, Triều Tiên Hàn Quốc, văn học chữ Hán phát triển rực rỡ, trở thành kỳ hoa dị thảo trong nền văn học Hán văn cổ điển. Nguồn gốc lâu đời của thơ chữ Hán Sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, Việt Nam giành được quyền tự chủ vào cuối thời Đường. Do đó, văn hóa đời Đường có ảnh hưởng rất lớn đến nền văn học chữ Hán Việt Nam. Không chỉ âm Hán Việt gần với ngữ âm đời Đường nhất, mà thơ Đường cũng được nền văn học cổ điển Việt Nam kế thừa và kéo dài. Thơ văn cổ Việt Nam khá giống thơ văn cổ Trung Quốc, đều mang một phong vị rất tiêu dao, hàm súc. Sau khi giành được độc lập, trăm việc ngổn ngang, đất nước lại cần phải phục hưng. Triều đại độc lập đầu tiên là nhà Đinh phúc phận ngắn ngủi từ năm 968 đến 980, thể chế chưa đầy đủ, chưa mở trường học. Vua Đinh Bộ Lĩnh ít chữ nghĩa, sau khi cầm quyền muốn dùng uy để cai trị thiên hạ, đặt cái đỉnh lớn trước triều đình, nuôi hổ trong chuồng, hạ lệnh ai trái lại sẽ bị đun chết hoặc cho hổ ăn. Mọi người đều sợ, không có người phạm lỗi. Do đó, triều Đinh không có nền văn học. Kế thừa triều Đinh là triều Tiền Lê 980 – 1010, phúc nước cũng ngắn ngủi giống triều Đinh. Các nhà văn, nhà thơ cũng chỉ thưa thớt, dù vậy đã để lại một số bài thơ chữ Hán sớm nhất còn lưu lại đến nay, tiêu biểu nhất là bài “Quốc tộ” Vận nước của thiền sư Đỗ Pháp Thuận. Quốc tộ như đằng lạcNam thiên lý thái bìnhVô vi cư điện cácXứ xứ tức đao binh Dịch thơ Vận nước chằng chịt dây leoTrời Nam khai mở ắt gieo thái bìnhVô vi xử thế cung đìnhĐao binh tự dứt thái bình nơi nơi. Năm 1010, triều Lý kiến lập liền dựng Văn miếu, mở khoa thi chọn nhân tài, văn phong dần dần phát triển. “Nam quốc sơn hà” Sông núi nước nam của đại tướng Lý Thường Kiệt là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất Nam quốc sơn hà nam đế cưTiệt nhiên định phận tại thiên thưNhư hà nghịch lỗ lai xâm phạmNhữ đẳng hành khán thủ bại hư Dịch thơ Sông núi nước Nam, vua Nam ởRành rành định phận tại sách trờiCớ sao lũ giặc sang xâm phạm?Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời Bản dịch của Hoàng Xuân Hãn Bài thơ này khí phách hào hùng, bút pháp nhuần nhuyễn, đặt vào cùng với Đường thi thì không hề thua kém. Sau thời Lý, văn thơ chữ Hán Việt Nam đã phát triển ổn định, chắc chắn. Có một điểm đặc biệt là rất nhiều bậc quân vương các triều đại đều yêu thích văn thơ chữ Hán. Các vua triều Trần đa phần giỏi văn chương, đến mức người Nguyên phải khen ngợi “An Nam tuy tiểu văn chương tại, vị khả khinh đàm tỉnh để oa” An Nam tuy nhỏ văn chương giỏi, chớ có coi thường chẳng phải ếch ngồi đáy giếng đâu. Lê Thánh Tông là “Tao đàn nguyên soái”. Ảnh Sau đó, vị vua đời thứ 4 triều Hậu Lê là Lê Thánh Tông 1442 – 1497 còn tự lập thi đàn, tự xưng “Tao đàn nguyên soái”. Thơ ông rất nhiều kiệt tác. Đến thời đầu triều Nguyễn, dù đã gần vào thời điểm mạt vận, các Hoàng đế Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cũng đều tinh thông văn thơ chữ Hán, đều có các bài thơ lưu truyền hậu thế. Vua Thiệu Trị 1807 – 1847 còn làm được 2 bài thơ thể “Hồi văn” là thể thơ lặp lại các từ với trật tự khác nhau, ngữ nghĩa khác nhau, có thể thấy trình độ Hán văn của vua rất cao. Một trong hai bài đó là bài thơ “Vũ trung sơn thủy” Non nước trong mưa Loan hoàn vũ hạ giang triều phiếmTrướng dật phong tiền ngạn bái hươngSơn tiêu ám vân thôi trận trậnLãng sinh khiêu ngọc trích thanh thanhSàn sàn thủy giản đài tư nhuậnDạng dạng ba châu liễu mậu vinhNhà điếu nhất chu ngư dật tấnHướng lâm song ông yến phi khinh Dịch thơ khuyết danh Dồn mưa nước cuộn triều dâng ngậpLộng gió sông đào bến biếc xanhNon phủ kín mây tuôn tới tấpSóng khêu thưa giọt gõ lanh canhLan man suối trải rêu tươi mậpSóng sánh cồn vươn cỏ tốt xanhNhàn thoáng một câu thuyền nhẹ tắpDóng rừng dăng kéo én bay nhanh. Đọc ngược đọc xuôi đều hợp luật có vần, có nghĩa, đọc ngược như sau Khinh phi yến tiễn song lâm hướngTấn dật ngư chu nhất điếu nhànVinh mậu liễu châu ba dạng dạngNhuận tư đài giản thủy sàn sànThanh thanh địch ngọc khiêu sinh lãngTrận trận thôi vân ám tỏa sơnThanh biện ngạn tiền phong dật trướngTấn triều giang hạ vũ hoàn loan. Dịch thơ khuyết danh Nhanh bay én kéo dăng rừng dóngTắp nhẹ thuyền câu một thoáng nhànXanh tốt cỏ vươn cồn sánh sóngMập tươi rêu trải suối man lanCanh lanh gõ giọt thưa khêu sóngTấp tới tuôn mây kín phủ nonXanh biếc bến đào sông gió lộngNgập dâng triều cuộn nước mưa dồn Thời đó có các nhà thơ văn nổi tiếng như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Bạch Hào Tử… Vua Tự Đức 1829 – 1883 đã làm thơ ca ngợi 4 nhà thơ văn trên như sau “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán. Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường” Văn như Siêu, Quát thời tiền Hán chưa từng có. Thơ như Tùng, Tuy là thơ đã thất lạc của thời Thịnh Đường. Tuy có khuếch đại, nhưng bốn người này văn thơ quả là xuất chúng. Như bài thơ “Hoành Sơn vọng hải” Trên núi Hoành Sơn ngắm biển của Cao Bá Quát 1809 – 1855 Quân bất kiếnHải thượng bạch ba như bạch đầuNộ phong hám phá vạn hộc châuLôi khu điện bác hãi nhân mụcTrung hữu điểm điểm phù khinh âuHải khí quyển sơn, sơn như chỉSơn bắc, sơn nam thiên vạn lýCông danh nhất lộ kỷ nhân nhàn?Quan cái phân phân ngã hành hỹ! Dịch thơ Anh chẳng thấyTrắng phau sóng vỗ bạc đầuGầm gào gió thét thuyền tàu vỡ tanKinh người chớp giật sấm ranHải âu đôi chấm bồng bềnh biển khơiNon nam núi bắc xa vờiLạnh dầm hơi biển hao gầy vẻ nonCông danh đường ấy ai nhànNợ đời mũ lọng rộn ràng bước ta Bản dịch của Trương Việt Linh Từ cảnh biển rộng tráng lệ, mênh mông, nhà thơ đã cảm thấy công danh chốn nhân gian chính là một sự bó buộc lớn, thơ có khí khái của Lý Thái Bạch. Cao Bá Quát 1809 – 1855. Những bài thơ vang danh lưu truyền thiên cổ So với Trung Quốc thư tịch cổ nhiều như biển, Việt Nam đặc biệt thời kỳ đầu thư tịch vốn còn lại không nhiều, chủ yếu do chiến tranh loạn lạc liên miên kéo dài. Ví dụ, khi tiến đánh Việt Nam, quân Mông Nguyên đã tiêu 4 bộ “Đại tạng kinh” và 1 bộ “Đạo đức kinh” mà Việt Nam thỉnh về từ nhà Tống. Năm Thiệu Khánh thứ 2 nhà Trần, quân Chiêm Thành từ đường biển vào cướp Thăng Long Hà Nội ngày nay, đã cướp con cái, ngọc lụa, đốt hủy cung điện, “Tranh, bản đồ, thư tịch vì vậy đã bị mất sạch”. Nhưng những thư tịch chữ Hán còn lại vẫn có rất nhiều tuyệt tác. Lý triều Thái Tổ Lý Công Uẩn 974 – 1028 vào năm 1010 đã dời kinh đô đến thành Đại La đổi tên thành Thăng Long. “Chiếu dời đô” do ông viết được coi là tác phẩm văn học viết và văn hiến lịch sử sớm nhất còn lại hiện nay. Tác phẩm mở đầu đầu bằng “Xưa nhà Thương và Bàn Canh 5 lần dời đô, nhà Chu đến Thành Vương 3 lần dời đô”, đã viện dẫn các kinh điển để nói lý do dời đô, văn từ rất hào hùng, xứng danh là tác phẩm truyền đời. Đến thế kỷ thứ 13, khi đại quân Mông Cổ xâm lược áp sát kinh thành Thăng Long, quân đội triều Trần đứng trước quan nạn tan vỡ, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn 1226 – 1300 đã viết “Dụ chư tì tướng hịch văn”, còn gọi là “Hịch tướng sỹ”, khảng khái, phấn chấn ngút trời, cổ vũ ý chí chiến đấu của tướng sỹ bảo vệ quốc gia “Ta thường nghe Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao ế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính ức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc… Giặc Mông Thát với ta là kẻ địch không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?”. Trong bài hịch này, Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức Uất Trì Cung, Cảo Khanh anh họ Nhan Chân Khanh đều là những kẻ sỹ trung liệt trong lịch sử. Cũng trong triều Trần đã xuất hiện rất nhiều thơ phú chữ Hán, đáng tiếc là được bảo tồn đến nay chỉ còn mười mấy bài, “Bạch Đằng giang phú” Bài phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu nổi tiếng một thời. Bài phú này mở đầu bằng “Giương buồm giong gió chơi vơiLướt bể chơi trăng mải miết” Cho đến cuối bài “Giặc tan muôn thuở thanh bìnhBởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao” Nhà thơ ví những lần chiến thắng trên sông Bạch Đằng với các trận chiến nổi tiếng lịch sử. “Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bayTrận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụiĐến nay sông nước tuy chảy hoàiMà nhục quân thù khôn rửa nổiTái tạo công laoNghìn xưa ca ngợi” “Bạch Đằng giang phú” là một viên ngọc quý với những câu thơ tuyệt tác còn được lưu truyền đến tận ngày nay. Trong những tác giả này, vị trí cao nhất trong nền văn học chữ Hán thuộc về Nguyễn Trãi, khai quốc công thần triều Hậu Lê do cống hiến to lớn của ông đối với nền văn học Việt Nam. Năm 1980, tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa liên hiệp quốc UNESCO đã tôn vinh ông là danh nhân văn hóa thế giới. Tác phẩm tiêu biểu của ông là “Bình Ngô đại cáo” nổi tiếng trên văn đàn và lịch sử Việt Nam. Bài hịch văn này trở thành “Thiên cổ hùng văn” lấy khẩu khí của Lê Lợi, hoàng đế sáng lập nhà Hậu Lê viết. Lời văn bình dị lưu loát, đọc lên thực sự xúc động lòng người, thực sự có giá trị nghệ thuật và giá trị văn hiến rất cao. Nguyễn Trãi 1380-1442 người làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, nay thuộc Chí Linh, Hải Dương. Ảnh Chữ “Ngô” trong “Bình Ngô đại cáo” là chỉ triều Minh, vì Chu Nguyên Chương đã từng xưng là Ngô Vương. Tư tưởng chính trong toàn bộ tác phẩm là lên án tội ác của triều Minh, đồng thời sử dụng nhuần nhuyễn các tấm gương lịch sử, các điển tích, trong lịch sử, văn học cổ đại Trung Quốc. Điều đó làm cho bài hịch văn đanh thép, luận cứ, dẫn chứng, chứng minh hùng hồn, đầy sức thuyết phục không chỉ đối với tướng sỹ, nhân dân, mà ngay cả đối với kẻ địch, làm nổi bật lên tư tưởng nhân nghĩa, chính nghĩa của cuộc kháng chiến “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dânQuân điếu phạt trước lo trừ bạoNhư nước Đại Việt ta từ trướcVốn xưng nền văn hiến đã lâuNúi sông bờ cõi đã chiaPhong tục Bắc Nam cũng khácTrải Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lậpCùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phươngTuy mạnh yếu có lúc khác nhauSong hào kiệt thời nào cũng có” Tiểu thuyết chương hồi khai phát Bốn bộ tiểu thuyết tiêu biểu của thời Minh Thanh lần lượt được truyền vào Việt Nam, trong đó “Tam Quốc diễn nghĩa” có ảnh hưởng lớn nhất. Theo “Bắc sứ thông lục” Ghi chép khi đi xứ Bắc triều của Lê Quý Đôn, từ năm 1760 đến 1762, ông đi sứ Trung Quốc, đã được đọc “Tây Du ký”, “Tam Quốc diễn nghĩa”… Khi trở về Việt Nam Lê Quý Đôn còn đem theo một bộ “Phong thần diễn nghĩa”. Lúc đó Việt Nam thường lấy các tích truyện trong các bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc viết thành các vở kịch. Hiện nay ở Bảo tàng Anh có lưu giữ hơn 50 kịch bản khắc gỗ của Việt Nam, trong đó có 9 vở có niên đại trước thế kỷ 19, là liên quan đến các câu chuyện Tam Quốc. Các vở kịch gồm có “Tam cố mao lư”, “Giang hữu cầu hôn truyện”, “Hoa chúc truyện”, “Kinh Châu phó hội”, “Hoa Dung đạo”, “Tiệt giang truyện”, “Đương Dương Trường Bản”… Bộ tiểu thuyết kinh điển “Tam quốc diễn nghĩa” có ảnh hưởng rất lớn đến văn học cổ điển Việt Nam, được các nhà tiểu thuyết gia Việt Nam coi là mẫu mực trong thể tiểu thuyết chương hồi, lịch sử. Bộ tiểu thuyết lịch sử chữ Hán đầu tiên của Việt Nam, đặt nền móng cho dòng văn học tiểu thuyết lịch sử Việt Nam là “Hoàng Việt xuân thu” ra đời vào giữa thế kỷ 15, gồm 60 hồi, chia làm 3 quyển thượng, trung, hạ, mỗi quyển 20 hồi. Bộ sách miêu tả giai đoạn lịch sử từ triều Hồ đầu thế kỷ 15 đến khi Lê Lợi lập ra nhà Hậu Lê. Tình tiết không phải quá hấp dẫn người đọc nhưng cũng khá hay. Trong “Hoàng Việt xuân thu”, mưu sỹ của Lê Lợi là Lê Thiện mà chính sử rất hiếm nhắc đến, là một nhân vật quan trọng. Ông là người hiến rất nhiều kế hay giúp Lê Lợi đánh thắng quân Minh như “Đầu thư thọ kế”, “Quyết sách công thành”, “Tượng trận thiêu đồn”, “Ngọc nhụy dụ địch”… Ông túc trí đa mưu, nhìn xa trông rộng, tính toán trong trướng, quyết thắng ngàn dặm, có thể so sánh với Gia Cát Lượng trong “Tam quốc diễn nghĩa”. Hai trăm năm sau, tiểu thuyết lịch sử cổ điển Việt Nam đạt đến đỉnh cao với bộ “Hoàng Lê nhất thống chí”. Đây là bộ tiểu thuyết viết vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, tương ứng với những năm cuối Càn Long và đầu Gia Khánh nhà Thanh Trung Quốc. Nội dung chủ yếu kể về sự diệt vong của triều Hậu Lê và cuộc khởi nghĩa Tây Sơn của họ Nguyễn. Bộ sách có 17 chương hồi, Ngô Thì Chí viết 7 hồi đầu, sau đó Ngô Thì Du viết tiếp 10 hồi, Ngô Thì Nhiệm biên tập chỉnh lý. Do ba anh em họ Ngô đều trải qua thời đại miêu tả trong tiểu thuyết, tận mắt thấy nhiều sự kiện lịch sử nên bộ sách đảm bảo được sự thống nhất về nghệ thuật tiểu thuyết và sự thực lịch sử. “Hoàng Lê nhất thống chí” mang đậm sắc thái số mệnh. “Thiên mệnh” này dường như đang chi phối tiến trình phát triển lịch sử chứ không phải con người. Nhân vật trọng điểm mà bộ tiểu thuyết xây dựng là Nguyễn Hữu Chỉnh, khởi đầu làm môn khách của Diệp Quận phủ. Thầy ông là Hoàng Tố Lý đảng Đặng Phi bị giết chết trong cuộc chiến quyền lợi, Chỉnh trốn chạy đến Tây Sơn được anh em Nguyễn Nhạc trọng dụng. Sau đó ông dẫn quân Tây Sơn vào Thăng Long, có công bảo giá, được thiếu Chúa coi trọng, trở thành nhân vật quyền lực trung tâm. Ông quyền ngang vua, thế nghiêng thiên hạ, mọi người không dám liếc nhìn, cuối cùng bị quân Tây Sơn giết. Nhân vật ỷ thiên tử để lệnh chư hầu này có bóng dáng của Tào Tháo trong “Tam quốc diễn nghĩa”. Nhưng trong “Tam quốc diễn nghĩa” chỉ làm nổi bật lên một mặt “gian hùng” của Tào Tháo, bỏ qua tính phức tạp của tính cách nhân vật. Tính cách nhân vật Nguyễn Hữu Chỉnh trong ”Hoàng Lê nhất thống chí” được phản ánh như thực, một mặt rất có tài năng, công lao, một mặt tự tư tự lợi, tham lam tàn bạo. Rõ ràng hình tượng nhân vật này phong phú hơn hình tượng Tào Tháo nhiều. Có thể thấy, các nhà tiểu thuyết gia của Việt Nam không chỉ học theo tiểu thuyết Trung Quốc mà có nhiều thủ pháp nghệ thuật vượt hơn Trung Quốc. Bất luận thế nào, di sản văn học chữ Hán Việt Nam cũng trở thành một bộ phận của chỉnh thể văn học cổ điển Á Đông. Ngày nay, Việt Nam đã sử dụng ký tự La-tinh, tuy tiện phổ cập, dễ đọc, dễ học nhưng nhưng cũng gây ra nhiều điều đáng tiếc. Chữ Hán bị đoạt dứt khiến rất ít người có thể tiếp cận với kho tàng văn học, văn hóa truyền thống. Đó cũng là sự đứt đoạn trong mạch văn hóa truyền thống và hiện đại. Nếu không nối được mạch đứt văn hóa truyền thống này thì như cây không gốc, như nước không nguồn. Con người, dân tộc không có bản sắc riêng thì rất dễ bị biến dị, bị hòa tan trong quá trình toàn cầu hóa như hiện nay. Nam Phương biên soạn Tác giả Vũ Thế Khôi Trong giới Hán học Trung Quốc và Việt Nam khá phổ biến ý kiến khẳng định rằng ngay từ cuối đời Tần cuối thế kỷ thứ III TCN chữ Hán đã bắt đầu được truyền vào Bắc bộ Việt Nam. Căn cứ duy nhất của họ là đoạn ghi trong Sử ký Tư Mã Thiên “Năm 33 tức 214 TCN – Tần Thuỷ Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành các quận Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải; cho những người đi đày đến đấy canh giữ”. Cũng dựa vào đoạn ghi chép đó, PGS Trần Nghĩa Viện Nghiên cứu Hán Nôm cho rằng những người bị đi đày này “… nghiễm nhiên trở thành những sứ giả chở chữ Hán và tiếng Hán tới phương Nam”. Sử ký Tư Mã Thiên là bộ sử liệu vĩ đại đáng tin cậy, nhưng từ một đoạn ghi chép trên mà suy luận rằng chẳng những tiếng mà cả chữ Hán được truyền đến Bắc bộ Việt Nam cùng đạo quân viễn chinh nhà Tần thì e chỉ là võ đoán. Vì vấn đề lại có ý nghĩa nguyên tắc từ góc độ giao lưu văn hoá Trung-Việt, nên cuối năm 2003, tại “Hội thảo quốc tế về truyền bá chữ Hán và giao lưu văn hoá Trung-Việt”, họp ở Thâm Quyến 19-21/12/2003, chúng tôi đã dành nửa đầu của báo cáo để đặt lại vấn đề với 2 ý kiến tranh luận, đó là 1. Cùng với cuộc viễn chinh của quân Tần, bất quá mới chỉ có sự lan truyền tự nhiên không thể gọi là truyền bá! khẩu ngữ tức tiếng Hán, thường song hành với mọi cuộc xâm lấn và di dân, chứ chưa thể có chuyện truyền bá chữ Hán; 2. Chỉ sau khi Triệu Đà, Huyện lệnh Long Xuyên quận Nam Hải, lợi dụng thời cơ nhà Tần sụp đổ, năm 207 chiếm lĩnh 2 quận Quế Lâm và Tượng Quận, thiết lập vương triều cát cứ Nam Việt quốc 207-111 TCN, 18 năm sau thôn tính nốt nước Âu Lạc 208-179 TCN của An Dương Vương, chữ Hán mới thực sự được truyền bá, tức được dạy một cách có chủ định ở vùng đất Bắc bộ và bắc Trung bộ Việt Nam ngày nay . Chứng minh ý kiến thứ nhất, chúng tôi biện luận như sau Theo chính Hán thư thì Tượng Quận không phải là Bắc bộ Việt Nam mà là vùng đất phía tây của Quảng Tây và phía nam của Quý Châu, như vậy thì trong cuộc viễn chinh vào miền đất Lĩnh Nam của Bách Việt, quân Tần mới chỉ đánh chiếm được vùng đất của Mân Việt Phúc Kiến, Quảng Đông, Dương Việt và Tây Âu Việt Quảng Tây và một phần Quý Châu, nhưng chưa chiếm cứ được đất Lạc Việt tức nước Âu Lạc của An Dương Vương. Một sử liệu đáng tin cậy khác là bức thư của Hoài Nam Vương Lưu An dâng lên can gián Hán Vũ Đế 140-86 trước CN đem quân vào đất Việt, đã miêu tả quân Tần từng bị khốn đốn ở đất Việt Lạc Việt? – như sau “Đời Tần sai quan uý Đồ Thư đánh đất Việt, người Việt trốn vào rừng núi, đánh không được, đóng quân ở vùng đất trống không, lâu ngày quân lính mệt mỏi, rồi người Việt ra đánh, quân lính Tần đại bại” . Sách Hoài Nam tử, cũng do chính Lưu An biên soạn, tả cảnh bại trận của quân Tần còn thê thảm hơn “Trong 3 năm không cởi giáp dãn nỏ… Người Việt đều vào trong rừng, ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người kiệt tuấn lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư, thây phơi huyết chảy hàng mấy chục vạn người”. Năm 214 mới chiếm được vùng Lĩnh Nam, đến đất Việt 3 năm chiến đấu liên miên “không cởi giáp dãn nỏ”, bị thảm bại chủ tướng bị giết, sĩ tốt thì phơi thây; 8 năm sau, 206, nhà Tần đã diệt vong, vậy thời gian đâu mà truyền bá chữ Hán? Nêu ý kiến chữ Hán chỉ bắt đầu được truyền bá được dạy và học có chủ định từ vương triều của Triệu Đà, chúng tôi căn cứ 2 sự kiện có trong sử sách Trung Hoa và Việt Nam, đó là a sử gia Việt Nam dẫn sách Thuỷ kinh chú của Trung Hoa, khẳng định rằng dưới triều đại Nam Việt quốc các Lạc tướng của Hùng Vương vẫn cai trị dân như cũ, tức Triệu Đà chủ trương sử dụng các hào trưởng người Việt có uy tín và lực lượng, lại thông hiểu ngôn ngữ và phong tục tập quán địa phương, để quản lý dân Lạc Việt; vậy thì để thông đạt các chiếu chỉ, mệnh lệnh, tất nhiên nhà Triệu phải tổ chức dạy cho họ chí ít biết đọc và viết được chữ Hán, tức là đến thời điểm ấy mới nảy sinh nhu cầu khách quan về một văn tự làm công cụ cho hệ thống hành chính thống nhất bao gồm người Hoa ở triều đình trung ương và người Việt ở phủ, huyện, làng xã. b Triệu Đà, để tranh thủ hậu thuẫn của người Việt nhằm xưng đế, cát cứ một phương, độc lập với đế quốc Hán, đã chủ trương dung hợp văn hoá Hoa – Việt, tạo ra những dòng họ hỗn huyết Hoa-Việt và dung hợp tự nhiên hai văn hoá Hoa và Việt. Sự kiện thứ hai này là nhân tố thuận lợi thúc đẩy việc bắt đầu truyền bá chữ Hán vào đến tận làng xã, chúng tôi đã cố gắng chứng minh chi tiết hơn như sau Triệu Đà vốn người Hán ở đất Chân Định, nay thuộc tỉnh Hà Bắc-Trung Quốc, cho Trọng Thuỷ cầu hôn Mỵ Châu đương nhiên nhằm mục đích thôn tính Âu Lạc. Nhưng sau khi đã tiêu diệt triều đình An Dương Vương, theo Sử ký Tư Mã Thiên, Triệu Đà tiếp tục chủ trương đó dùng Lữ Gia mà chínhSử ký Tư Mã Thiên gọi là “Việt nhân” đúng hơn phải nói là người Hán đã Việt hoá do sống giữa cộng đồng người Việt, cũng như Lý Bôn Nam Đế – và ghi nhận Gia “làm Thừa tướng 3 đời vua… Con giai lấy con gái vua, con gái lấy con giai, anh em tôn thất của vua…; ở trong nước rất được tôn trọng, người Việt tin ông, nhiều người làm tai mắt cho ông, ông được lòng dân hơn vương”. Chẳng những thế, bản thân Đà đã chủ động thích ứng với phong tục, tập quán của người Việt trong thư dâng Hán Văn Đế 179-156 trước CN ông viết “Lão phu ở đất Việt đã 49 năm, hiện đương bồng cháu”. Thâm ý của câu đó, họ Triệu khi tiếp sứ thần nhà Hán là Lục Giả, đã giải thích khá cụ thể bằng hành động “xoã tóc, ngồi chò hõ tức ngổi xổm, chồm hỗm theo phong tục người Việt, chứ không búi tóc, ngồi quỳ gối theo nghi lễ Trung Hoa – mà tiếp” và cũng khá thẳng thừng đáp lại lời Giả trách Đà “phản thiên tính” tức quên phong tục mẹ đẻ là người Hán! “Tôi ở trong xứ mọi rợ lâu ngày, quên hết lễ nghĩa rồi” tức không theo lễ nghi của người Hán nữa!. Có thể nói rằng họ Triệu và họ Lữ Lã là những đại biểu sớm nhất của các dòng họ cổ đại hoà trộn hai huyết thống Việt và Hoa được sử sách ghi lại, tức cũng xác nhận vào thời điểm đó mới bắt đầu hình thành nhân tố thuận lợi thúc đẩy sự truyền bá chữ Hán và giao lưu văn hoá Trung-Việt. Việc Triệu Đà chủ trương dung hợp hai nền văn hoá Hoa và Việt, gần đây được chính một số học giả Trung Quốc khẳng định. Sau khi tham dự Hội thảo Thâm Quyến, trên đường về qua Quảng Châu, nhân ghé thăm khu mộ của cháu Triệu Đà là Văn Vương Triệu Muội, chúng tôi mua được sách Lĩnh Nam chi quang, miêu tả việc khai quật khu mộ đá này năm 1983. Các tác giả sách viết Triệu Đà … “thúc đẩy chính sách dân tộc “hoà tập Bách Việt”, xúc tiến quá trình dung hợp dân tộc Hán – Việt và phát triển kinh tế – văn hoá” . Khách quan mà nói, quan điểm về sự dung hợp hai nền văn hoá Việt và Hoa dưới triều đại Triệu Đà trong toàn cõi Nam Việt quốc đã từng được một số nhà sử học Sài Gòn nêu lên khá sớm, nhưng đúng như nhà sử học Đào Hùng, Phó tổng biên tập báo Xưa & Nay, nhận định trong Lời giới thiệu công trình cực kỳ lý thú của nghiên cứu sinh tiến sĩ năm thứ nhất Đại học Văn khoa Sài Gòn Tạ Chí Đại Trường, xuất bản năm 1989 tại Hoa Kỳ, đến đầu năm 2006 này mới được in lại ở Việt Nam, nhan đề Thần, người và đất Việt “Trải qua một thời gian dài giới nghiên cứu chúng ta thường bị những động cơ chính trị chi phối nên việc nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiên kiến”. Có thể nói một trong những thiên kiến như vậy là quan điểm chính thống trong giới sử học miền Bắc coi nhà Triệu là kẻ xâm lược, mà đã là kẻ xâm lược thì phải xấu, không thể có đóng góp gì đáng bàn nữa! Trong công trình nói trên, với một phương pháp nghiên cứu khách quan, không bị lập trường chính trị o ép, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường xuất phát từ luận điểm về sự liên tục văn hoá và căn cứ thực tế lịch sử về giao lưu văn hoá của cộng đồng người Việt với Hán, Chămpa và các tộc người khác, đã phát biểu những ý kiến xác đáng, nêu một nhận xét táo bạo, nhưng theo chúng tôi, không phải không có lý, rằng “Ranh giới Giao [tức Giao Chỉ] – Quảng [tức Quảng Đông, Quảng Tây] còn nhập nhoà trong trận chiến Lý-Tống 1075-1077 khi Lý đem quân qua châu Khâm, châu Liêm có người giúp đỡ, nội ứng…”, tức theo ông, trải qua hơn nghìn năm vẫn tồn tại những truyền thống bắt nguồn từ sự dung hợp văn hoá Hoa và Việt từ thời Triệu Đà khiến ít ra một bộ phận dân chúng vùng Lưỡng Quảng không hề mặc cảm đạo quân viễn chinh của Đại Việt là những kẻ dị chủng xâm lược. Bốn chục năm trước đây, khoảng năm 1962/63, chúng tôi từng được nghe một vị sư già ở chùa Thầy nói xương cốt dưới hang chùa là của binh lính Lữ Gia không chịu ra đầu hàng, bị quân Hán vây đến chết đói ở dưới đó. Ngay ở Hà Nội cho đến năm 1979 vẫn còn phố Lữ Gia nay là phố Lê Ngọc Hân. Tại một số địa phương trên đất Việt Nam ngày nay dân chúng vẫn thờ Triệu Đà và Lữ Gia. Chẳng hạn, ở làng Đồng Xâm xã Hồng Thái huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình vẫn còn di tích một đền lớn uy nghi, được xếp hạng như di tích thờ vị Tổ nghề chạm bạc truyền thống. Thực ra, Tổ nghề Nguyễn Kim Lâu chỉ được thờ trong một cái am nhỏ ở địa điểm khác. Đây cũng lại là một bằng chứng về cái sự “bị động cơ chính trị chi phối”, khiến người ta phải làm sai lệch sự thật về ngôi đền này, bất chấp thư tịch lịch sử và địa chí. Danh sĩ cuối đời Lê là Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ 1726-1780 viết rành rành trong công trình nổi tiếng Việt sử tiêu án “… làng Đường Xâm quận Giao Chỉ nay là Đường Xâm huyện Chân Định có miếu thờ Triệu Đà…” Huyện Chân Định sang triều Nguyễn thuộc phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định, đến năm 1894, phủ Kiến Xương cắt về tỉnh Thái Bình mới lập, sau bỏ phủ, đổi gọi là huyện Kiến Xương. Năm 1924 nhà địa dư học Ngô Vi Liễn còn ghi ở chương “Tỉnh Thái Bình” trong sách Địa dư các tỉnh Bắc kỳ “Đền Triệu Vũ Đế ở làng Thượng Gia, phủ Kiến Xương, hội về ngày mồng 1 tháng tư”. Cũng sách của Ngô Vi Liễn cho biết làng Thượng Gia thuộc tổng Đồng Xâm sách đời Nguyễn Gia Long còn gọi là tổng Đường Xâm. Tâm thức dân Việt không phải ngẫu nhiên vẫn tôn thờ Triệu Đà. Ngoài công “hoà tập Bách Việt”, phát triển kinh tế và văn hoá, biến cả miền Lĩnh Nam thành ánh hào quang =Lĩnh nam chi quang, họ Triệu đã Việt hoá từng cùng dân Việt chống ngoại xâm. Sử ký Tư Mã Thiên viết rằng thời Triệu Minh Vương chắt của Triệu Đà con là thái tử Anh Tề phải vào làm con tin tại triều đình nhà Hán, lấy gái Hán ở Hàm Đan họ Cù, đẻ ra con trai là Hưng, sau được nối ngôi, nên Cù thị trở thành thái hậu Nam Việt quốc; hồi còn trên đất Trung Quốc, đã là vợ Anh Tề, Cù thị vẫn dan díu với người huyện Bá Lăng là An Quốc Thiếu Quý, nay thấy Thiếu Quý sang làm sứ giả, lại cùng gian dâm, rồi khuyên vua quan Nam Việt xin “nội thuộc” nhà Hán… “bọn Lữ Gia bèn làm phản, ra lệnh trong nước “Vương tuổi còn trẻ, thái hậu là người Trung Quốc, lại dan díu với sứ giả, chỉ muốn nội thuộc…”. Lữ Gia bèn cùng em đem quân đánh giết vương, thái hậu cùng các sứ giả của nhà Hán…; lập Vệ Dương hầu Kiến Đức, người con trai đầu của Minh Vương, vợ Đại Việt sử ký toàn thư ghi “mẹ” – là người Việt, làm vua…, đem quân đánh bọn Thiên Thu tướng nhà Hán, diệt được họ cách Phiên Ngung nay là Quảng Châu 40 dặm. Gia sai người phong gói cờ tiết của sứ giả để ở cửa ải, khéo nói dối để tạ tội, rồi đem quân đóng giữ những nơi hiểm yếu” chúng tôi nhấn mạnh – . Rõ ràng vương triều họ Triệu cùng vị Thừa tướng “Việt nhân”, “được lòng dân hơn vương”, là những người đầu tiên , trước Hai Bà Trưng cả 144 năm, đã chống quân xâm lược nhà Hán. Cuộc kháng chiến của họ dẫu được dân Việt ủng hộ, vẫn thất bại do tương quan lực lượng quá chênh lệch ở thời buổi nhà Hán vừa mới diệt Tần lên làm chủ Trung Hoa, đang trở thành một đế chế hùng mạnh. Nhưng cũng như một người xưa, Tiến sĩ Vũ Tông Phan, đã viết về Hai Bà Trưng trên tấm bia lập năm 1840, hiện vẫn dựng giữa sân đền thờ Hai Bà ở Đồng Nhân-Hà Nội “Việc làm của kẻ trượng phu không thể lấy thành hay bại mà bàn luận” . Sử sách nước ta qua các thời đại khác nhau có quan điểm khác nhau về vương triều Nam Việt. Đại Việt sử lược, bộ sử thời Lý-Trần TK XII-XIII chép “Nhà Triệu” ngang hàng với các “Nhà” Ngô, Đinh, Lê Đại Hành, Lý. An Nam chí lược đầu TK XIV, do Lê Tắc viết trên đất Trung Quốc nên không dám dùng chữ “kỷ” mà Tư Mã Thiên chỉ dành riêng cho các triều đại hoàng đế Trung Hoa, gọi Triệu là “thế gia” “Triệu thị thế gia” ngang hàng các “thế gia” Đinh, Lê, Lý, tức vẫn coi là một triều đại thuộc sử Đại Việt. Nguyễn Trãi coi quốc thống Đại Việt trước nhà Lê gồm cả Triệu, Đinh, Lý, Trần. Trong Bình Ngô đại cáo năm 1427 ông tuyên bố Xét như nước Đại Việt ta, Thực là một nước văn hiến. Cõi bờ sông núi đã riêng, Phong tục Bắc Nam cũng khác. Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương. Theo tinh thần đó Đại Việt sử ký toàn thư chép nhà Triệu như một triều đại chính thống của Đại Việt. Đến cuối thế kỷ XVIII, Việt sử tiêu án và Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ phê phán chép sử Việt như thế là sai và đưa nhà Triệu ra ngoài, gọi riêng là “ngoại thuộc”, để phân biệt với giai đoạn “Bắc thuộc” sau này, khi nước ta “nội thuộc” Trung Quốc. Quốc sử quán triều Nguyễn theo như thế, có lẽ còn vì lý do năm 1804 vua Gia Long xin đặt quốc hiệu là “Nam Việt”, nhưng hoàng đế nhà Thanh không chuẩn cho, hẳn e ngại sự tái diễn việc cầu hôn một công chúa Trung Hoa và xin lại đất Lưỡng Quảng mà Quang Trung đã đặt ra. Để rạch ròi, triều Thanh đề nghị quốc hiệu “Việt Nam”, nhưng vua Gia Long không chấp thuận, tự đặt quốc hiệu là Đại Nam. Đến đầu thế kỷ XX, khi nước ta đã thành thuộc địa của Pháp, quyền uy Trung Hoa không còn tác dụng nữa, sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược viết 1919, in 1921 mới lại đưa “nhà Triệu” vào quốc thống Đại Việt. Nếu Quang Trung không mất sớm thì sẽ ra sao nhỉ? Nhưng lịch sử không chấp nhận chữ “nếu”. Lịch sử đã an bài từ lâu. Ngày nay Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng hữu nghị, với biên giới đã xác định. Bởi vậy trong báo cáo tại Hội thảo Thâm Quyến 2003, chúng tôi đã nói rõ chỉ xem xét vương triều Triệu Đà thuần tuý từ góc độ giao lưu văn hoá. Nay xin một lần nữa nhấn mạnh như vậy. Nguồn Tạp chí Xưa và Nay số 256 tháng 8/2006 & Talawas Website Email Tel  TẮT BÁO CÁO KHOA HỌCÝ NGHĨA CỦA VIỆC ẢNH HƯỞNG CỦA CHỮ HÁN VÀO VIỆTNAM I. MỤC ĐÍCH CỦA BÁO CÁOKhi xã hội phát triển, nhu cầu giao lưu học hỏi, tìm hiểu lẫn nhau, cùngnhau phát triển càng được đẩy mạnh, nhất là khi nền kinh tế mỗi nước phát triểnở một trình độ nhất định nào đó thì xu hướng tìm hiểu những đặc trưng văn hoácàng được quan tâm, bởi lúc đó văn hoá chính là yếu tố để phân biệt các nướcvới nhau. Trung Quốc là một nước láng giềng của Việt Nam, có quan hệ lịch sửlâu đời và giao lưu ảnh hưởng với Việt Nam sâu sắc về về nhiều mặt, đặc biệt làvấn đề văn hoá. Bản thân tôi là một sinh viên chuyên nghành Trung Quốc học,việc nghiên cứu văn hoá Trung Quốc là điều rất cần thiết. Để tiếp cận và tìmhiểu sâu sắc nền văn hoá Trung Hoa, rào cản trước tiên có lẽ là vấn đề văn tự, cóđọc được chữ của họ thì mới hiểu được họ đã làm, đã nghĩ gì, văn hoá của họ đãtừng bước phát triển và ảnh hưởng ra bên ngoài như thế nào. Để giải quyết khókhăn này, các sinh viên chuyên ngành Trung Quốc học chúng tôi đã đượcnghiên cứu thứ chữ tượng hình này ngay từ trước khi đi sâu nghiên cứu các vấnđề về Trung Hoa. Càng học chúng tôi càng cảm thấy hứng thú, có lẽ bởi chúngtôi dần phát hiện ra cái ý nghĩa mà con Chữ Hán ẩn chứa, từ những chữ GiápCốt Văn, Kim Văn đầu tiên, cấu tạo của nó và cả sự diễn biến kỳ diệu về hìnhthể của những chữ Triện, Lệ, Khải, Thảo, Hành sau này. Hiểu được những ýtưởng người Trung Quốc xưa muốn gửi gắm qua những con chữ tượng hình -biểu ý này và nắm được những ảnh hưởng của nó đến các nước phương Đông,vấn đề đặt ra đối với con người ở các nước này là việc tìm hiểu ý nghĩa mà chữHán đã ảnh hưởng tới. Là một người sống ở một nước có sự ảnh hưởng của chữHán lại được học ở ngành Trung Quốc học khoa Đông Phương học trường Đạihọc Khoa học Xã hội và Nhân văn tôi cảm thấy đây là một việc làm rất cần thiếtbởi nó làm hoàn thiện hơn những tri thức của tôi đối với ngành học, thấy đượcmặt khác về ý nghĩa của chữ Hán đối với Việt Nam. Quan trọng hơn nữa là vấnđề văn hoá, sự ảnh hưởng của chữ Hán vào các nước phương Đông và lưu lại1Website Email Tel  ảnh hưởng hết sức sâu đậm ở Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiênđã tạo thành một vòng quay văn hoá hết sức đặc trưng của khu vực Ý NGHĨA CỦA VIỆC ẢNH HƯỞNG CHỮ HÁN VÀO VIỆTNAMĐể hiểu được ý nghĩa của chữ Hán đối với Việt Nam, chúng ta hãy xemchữ Hán xuất hiện như thế Sự xuất hiện chữ HánCó thể nói khi loài người xuất hiện cũng là lúc ngôn ngữ xuất ngôn ngữ nói không thể truyền lâu dài, truyền xa, và chính xác được. Dovậy theo sự phát triển của xã hội con người, nhu cầu lưu lại những kinh nghiệmsản xuất, đấu tranh hoặc truyền đạt những ý tưởng, tình cảm, hoặc tâm tưnguyện vọng, từ nơi này đến nơi khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác phátsinh. Chữ viết được sáng tạo làm thoả mãn những nhu cầu một trong những loại chữ xuất hiện sớm nhất, khoảng 3500 năm, làloại văn tự tượng hình- biểu ý. Ban đầu con người ở đây cũng dùng hình thức “truyền miệng” để giao lưu tình cảm, truyền đạt tin tức, trao đổi tri thức và kinhnghiệm. Nhiều truyền thuyết Trung Hoa như Tam hoàng, Ngũ Đế đều đượcngười đời sau căn cứ vào truyền thuyết mà chấn chỉnh lại. Trước khi dùng chữviết, người Trung Quốc dùng phương pháp “ bện tết dây thừng” hoặc “ khắc lêngỗ” để ghi lại sự vật, phát minh ra bát quái dùng ký hiệu để ghi sự vật chính làmột sự tiến sáng tạo ra chữ viết không phải là của một hay vài người mà là sựsáng tạo của một đoàn thể người, của nhiều dân tộc cùng chung sống. Văn hoáthời kỳ sơ khai của Trung Quốc là sự sáng tạo của tộc người Hoàng Đế, tộc Viênđế, tộc Đông Di và Chữ Hán cũng tương tự như vậy. Do vậy người ta gọi chữTrung Quốc là Chữ Hán cũng là hiểu dựa trên nguyên lý này, vì tộc Hán là tộcchiếm dân số đông nhất 91,08% với nền văn minh phổ thông hiện nay của người Trung Quốc chính là Chữ Hán. TrungQuốc là một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ. Nhiều dân tộc vẫn sử dụng hệ2Website Email Tel  chữ viết riêng của họ, song Chữ Hán vẫn là thứ chứ được được dùng nhưmột ngôn ngữ chính, ngôn ngữ thông hành giữa các dân tộc với Hoàn cảnh lịch sử nào, điều kiện lịch sử nào đưa tới một đợt tiếpxúc lâu dài liên tục và sâu rộng của tiếng Hán đối với Việt NamViệt Nam vốn không có văn 179 trước công nguyên Triệu Đà đem quân xâm lược Âu 111 trước công nguyên nhà Hán đặt nền đô hộ ở Giao Chỉ, CửuChân - Một đợt tiếp xúc liên tục, sâu rộng, kéo dài trong nhiều thế kỷ. Năm 111trước công nguyên được coi là buổi đầu chữ Hán du nhập vào Việt Nam và trởthành thứ văn tự chính thức. Chỉ đến năm 905 khi họ Khúc giấy nghiệp và nhất là đến năm 938 khiNgô Quyền đại thắng quân Nam Hán đưa lại nền độc lập cho nước nhà thì đợttiếp xúc này mới thực sự chấm dứt nhân tố đưa đến một đợt tiếp xúc lâu dài, liên tục và sâu rộng+ Sự thành lập bộ máy thống trị của người Hán, một bộ máy càng ngàycàng muốn đi sâu xuống tận cơ sở.+ Sự có mặt, sự cộng cư với người Việt của một khối lượng đông đảo“Kiều nhân” người Hán.+ Sự truyền bá của nền văn hoá Hán và sự ra đời của một tầng lớp tri thứcquý tộc người Việt Nam tham gia góp phần tuyên truyền ngôn ngữ, văn hoáHán. Sau thời kỳ Bắc thuộc là thời kỳ độc lập và tự chủ, qua nhiều triều đạiphong kiến Việt Nam trừ một số giai đoạn ngắn nước ta bị phong kiến phươngbắc xâm chiếm và đô hộ. Tuy Việt Nam độc lập và tự chủ nhưng Việt Nam vàTrung Hoa vẫn có mối bang giao về chính trị, trao đổi về kinh tế, sự giao lưu vềvăn hoá, thời kỳ này chữ Hán và tiếng Hán vẫn giữ vai trò chính thống tronggiấy tờ hành chính của ngôn ngữ, trong giáo dục khoa cử và cả trong các sángtác văn thực dân Pháp đặt nền thống trị ở Việt Nam, tiếng Pháp bắt đầu giữđịa vị chính thống. Biết tiếng Hán thời này là những tầng lớp sĩ phu của chế độ3Website Email Tel  còn lại và những học trò của các nho sĩ đã thất thế, tuy nhiên không phải vìvậy mà việc tiếp xúc ngôn ngữ Hán vào Việt Nam hoàn toàn bị cắt đứt. Đặc biệtlà từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 các nhà yêu nứơc Việt Nam qua sách báo chữHán đã tìm thấy những tư tưởng tiến bộ của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi,Tôn Trung Sơn và tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin .3. Ý nghĩa của việc ảnh hưởng chữ Hán vào Việt NamNếu trong thời phong kiến, Chữ Hán đóng vai trò là công cụ mở mangvăn hoá để người Việt Nam hiểu sâu đạo Nho, đạo Phật, đạo Lão, tiếp thu cácgiá trị của khu vực xây dựng các thiết chế Nhà nước, các thiết chế văn hoá caocấp, tạo nên giá trị văn hiến Đại Việt, thì khoảng trong hai mươi năm đầu củathế kỷ XX, Chữ Hán ở Việt Nam vẫn đóng vai trò ấy, đồng thời giới thiệu chongười Việt Nam những thành tựu, giá trị của văn minh thế giới, văn minh Âuchâu, Mỹ châu, Mỹ châu vốn được người Trung Quốc, người Nhật từng khác, Chữ Hán giai đoạn này còn là công cụ tuyên truyền yêu nướcvà cách mạng, ngôn ngữ của báo chí, văn chương. Các tác giả lớn của bộ phậnvăn học yêu nước và cách mạng giai đoạn này chủ yếu đều xuất thân từ cửnghiệp. Họ là linh hồn của những phong trào yêu nước sôi động đầu thế kỷ XXnhư phong trào Đông Du, Đông kinh nghĩa thục, phong trào chống sưu thuế, Họ dùng Chữ Hán làm thơ văn kêu gọi yêu nước với một nhiệt huyết chứa Hán đã trở thành phương tiện cho họ diễn đạt những khát vọng nhằm cứunước, cứu nòi viết chính cương, đường lối, cho phong trào, viết thư kêu gọiđồng bào, đồng chí, viết đối lion, điếu văn khi nghe tin đồng chí của mình bỏmình vì sự nghiệp lớn hay có khi ghi lại lời tuyệt mệnh của chính mình. Nộidung của các văn bản đã khơi dậy trong lòng mỗi người trách nhiệm với nonsông, giống nòi, trở thành vũ khí động viên, giác ngộ đồng bàoTrong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảngtiên phong, của giai cấp công nhân, một lần nữa người Việt Nam lại sung sướngđón nhận những tư tưởng tình cảm lớn của thế kỷ qua những dòng văn thơ Hánđiêu luyện, tràn đầy những sinh khí Email Tel  là ý nghĩa về văn hoá, chính trị, tri thức khoa học của chữ Hán đối vớiViệt Nam. Còn một vấn đề nữa đó là vấn đề ngôn ngữ. Bởi qua một giai đoạntiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt lâu dài và liên tục đã làm nảy sinh nhiều hiệntượng ngôn ngữ đáng chú ý. Đây chính là nhiệm vụ đối với tầng lớp thanh niêntri thức trẻ hiện nay. Có rất nhiều người còn mơ màng về vấn đề cách đọc Hán -Việt, vấn đề chữ Nôm. Về cách đọc Hán - Việt Là cách đọc chữ hán của người Việt, bắt nguồntừ hệ thống ngữ âm tiếng Hán thời Đường, chịu sự chi phối của ngữ âm hình thức cách đọc Hán Việt là do sang thế kỷ thứ X Việt Nam trởthành một quốc gia độc lập và tự chủ . Vì lý do chính trị đó tiếng Hán ở ViệtNam đã hoàn toàn cách ly khỏi tiếng Hán ở bên kia biên giới. Sau thế kỷ thứ 10tiếng Hán ở các triều đại Nguyên, Minh, Thanh vẫn tiếp tục diễn biến, không tácđộng một cách trực tiếp với vai trò quyết định như trước nữa nên tiếng Hán ởViệt Nam chịu sự chi phối của tiếng Việt. Cách đọc Hán Việt đã hình thành,phát triển và tồn tại đến ngày nay. Tầm quan trọng của cách đọc Hán Việt + Một lối đọc thuận lợi cho người Việt, có thể dùng đọc mọi văn bản Hán.+ Một căn cứ để nghiên cứu lịch sử tiếng Việt.+ Một căn cứ để nghiên cứu chữ Nôm.+ Rất quan trọng đối với ngành Đông Phương mặt từ vựng, có ảnh hưởng hai chiều trong trong vốn từ Hán có tiếpnhận một số từ tiếng Việt, trái lại trong tiếng Việt cũng tiếp nhận nhiều từ củatiếng dụ những từ trong tiếng Hán ba la mật mít; phù lưu trầu; Giangsông; vả cây vả đều là những từ gốc tiếng Việt nhiều từ mượn tiếng Hán gọi là từ gốc Hán Có từ mượntừ trước lúc có cách đọc Hán - Việt nay còn lưu lại dấu vết trong tiếng Việt, cótừ mượn đọc theo cách đọc Hán Việt mà người ta thường gọi là từ Hán Việtchiếm một số lượng rất dụ Chè có cách đọc Hán Việt tương đương là Trà5Website Email Tel  có cách cách đọc Hán Việt tương đương là LongĐuổi có cách cách đọc Hán Việt tương đương là TruyBuồng có cách cách đọc Hán Việt tương đương là PhòngChém có cách cách đọc Hán Việt tương đương là TrảmLà những từ gốc Hán mượn từ thời thượng ra một số ít vay mượn theo con đường khẩu ngữ theo cách phát âmđịa phương của Trung Quốc như mì chính, màn thầu, xà xíu, mằn thắn Tóm lại, từ Hán Việt là từ gốc Hán đọc theo cách đọc của Việt Nam bắtnguồn từ hệ thống ngữ âm cuối đời Đường. Sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt còn có một hệ quả khác nữa là sự xuấthiện của chữ Nôm. Chữ Nôm dựa trên cơ sở chữ Hán và cách đọc Hán Việt làký hiệu văn tự tiếng Việt. Nhờ có chữ Nôm mà bảo tồn được nhiều áng văn thơbất hủ như thư Quốc Âm thời Hồng Đức của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều củaNguyễn Du, bản dịch Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm…Chữ Nôm là một sản phẩm biểu lộ tài trí của người Việt nam trong sựnghiệp Việt hoá văn tự Hán trên cả ba mặt Âm đọc phải ngữ nghĩa và phạm visử dụng. Nó đã để lại cho sự nghiệp này hàng loạt những văn bản chứa đựngnhững nội dung phong phú, đa dạng, xúc tích đạm đà sắc thái dân tộc và giàutính sáng tạo độc đáo, có giá trị nghệ thuật và học thuật cao. Địa bàn hoạt độngcủa nó chủ yếu ở giấy tờ, sách vở, tiếng Việt mới là thứ tiếng đóng vai trò chủchốt và chiếm địa vị ưu thế tuyệt đối trong hoạt động ngôn ngữ số đông của toàndân Việt nam, từ vua quan cho đến toàn dân thiên Nôm thuộc loại hìnhghi âm. Xét trong mối tương quan với Chữ Hán, về đại thể Chữ Hán gồm 2 loại+ Loại chữ sử dụng các Chữ Hán hoàn chỉnh có sẵn để biểu thị các từtrong tiếng Việt theo cách dùng cả âm đọc âm Hán Việt lẫn ý nghĩa của chữ, vídụ chữ Tâm để ghi từ tâm có nghĩa là tim hoặc chỉ dùng âm như chữmột có nghĩa là chìm đắm, mai một đi nay dùng làm chữ Nôm để chỉsố từ “một” số 1.+ Loại chữ sáng tạo riêng để ghi từ trong tiếng Việt bằng cách ghép mộtsố Chữ Hán hoặc bộ phận của Chữ Hán và dùng thêm các dấu phụ. Ví dụ chữ6Website Email Tel  hai chữ ba và lăng ghép lại để ghi chữ Blăng tức chữTrăng trong tiếng Việt cổ ghi âm. Chữ do hai chữ thảo cỏ vàchữ cổ ghép lại để ghi từ “cỏ” cỏ cây trong tiếng Việt vừa âm vừaýĐiều đáng quan tâm trước hết ở chữ Nôm là mặt kết cấu ngữ âm củavăn nghệ sĩ khó Email Tel  LUẬNTrung Quốc là đại biểu của nền văn hoá Phương Đông trong suốt mấyngàn năm lịch sử. Văn hoá Chữ Hán Trung Quốc là chiếc nôi của văn minhPhương Đông, nó đã lắng trong tính cách, khí chất và tinh thần cốt cách của cácdân tộc Phương Đông. Chữ viết là phương tiện nối liền Phương Đông với thếgiới. Để tìm hiểu đặc trưng văn hoá Phương Đông cần tìm hiểu kỹ văn tự củaPhương Đông mà trong đó đặc biệt là văn tự của Trung Quốc. Bởi lịch sử ChữHán đã trải qua hơn năm lịch sử, ban đầu là chữ viết riêng của người Hánnhưng dần dần nó đã được phổ biến và lan toả ra vùng Đông và Đông Nam á,lưu lại một ảnh hưởng hết sức sâu đậm ở Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản cũngnhư nhiều vùng dân tộc ít người khác. Nó không chỉ có ý nghĩa phản ánh lịchsử, văn hoá, xã hội con người Trung Hoa mà còn phản ánh cả lịch sử xã hội conngười ở những vùng mà nó ảnh hưởng tới,là thứ chữ đầu tiên được nâng lênthành nghệ người Việt Nam, đặc biệt là một sinh viên khoa Đông Phương -chuyên ngành Trung Quốc nhận thức được ý nghĩa lớn lao mà hệ thống văn tựHán đã ảnh hưởng vào Việt Nam. Thiết nghĩ nghiên cứu chữ Hán, chữ Nôm làmột điều vô cùng quan trọng. Nó không chỉ có ý nghĩa đối với văn hoá ViệtNam mà còn có ý nghĩa đối với văn hoá đặc trưng của phương Đông./. 9Website Email Tel  LỤC10

văn học chữ hán việt nam